Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025
Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025 được ban hành nhằm duy trì, đẩy mạnh hoạt động giáo dục, chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khỏe trẻ em, học sinh trong trường học nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần cho học sinh.
Các chỉ tiêu thực hiện chương trình thực hiện theo quy định tại Mục III Điều 1 Quyết định 1660/QĐ-TTg năm 2021, cụ thể:
1. Về chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khỏe học sinh trong trường học:
- 80% trường học bảo đảm các điều kiện thực hiện công tác y tế trường học, chăm sóc sức khỏe học sinh theo quy định.
- 85% trường học thực hiện kiểm tra sức khỏe học sinh đầu năm học theo quy định.
- 50% trường học thực hiện việc đánh giá phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ về bệnh không lây nhiễm, sức khỏe tâm thần cho học sinh.
- 75% trường học cung cấp đủ nước uống và nước sạch cho sinh hoạt, hoạt động trong trường học bảo đảm chất lượng theo quy định.
- 100% trường học có nhà vệ sinh cho học sinh, trong đó 50% trường học có đủ nhà vệ sinh cho học sinh theo quy định và 80% nhà vệ sinh bảo đảm điều kiện hợp vệ sinh.
- 80% trường học đạt tiêu chuẩn trường học an toàn; 75% phòng học đạt yêu cầu về chiếu sáng (độ rọi không dưới 300 Lux); 50% trường học phổ thông bố trí bàn ghế bảo đảm cỡ số theo nhóm chiều cao của học sinh, phù hợp cho học sinh khuyết tật.
2. Về công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường học:
- 80% trường học bố trí ít nhất 01 khu vực bảo đảm các trang thiết bị, dụng cụ cần thiết dành cho giáo dục thể chất và hoạt động thể thao theo quy định.
- 85% trường học tổ chức hoạt động vận động thể lực phù hợp cho học sinh thông qua các hoạt động thể thao ngoại khóa, hình thức câu lạc bộ thể thao.
- 100% trường học tổ chức kiểm tra, đánh giá, xếp loại thể lực học sinh theo quy định (đối với các trường học phổ thông).
- 100% trường học định kỳ tổ chức thi đấu thể thao theo quy định của pháp luật về thể dục, thể thao.
- 100% trường học có đủ giáo viên giáo dục thể chất và được tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ (đối với các trường học phổ thông).
3. Về tổ chức bữa ăn học đường, bảo đảm dinh dưỡng hợp lý trong trường học:
- 100% trường học tổ chức các hoạt động giáo dục dinh dưỡng hợp lý, thực phẩm lành mạnh, an toàn cho học sinh thông qua các giờ học chính khóa, hoạt động ngoại khóa.
- 100% trường học có tổ chức bữa ăn học đường và căng tin trường học bảo đảm các điều kiện về vệ sinh, an toàn thực phẩm theo quy định, trong đó 60% trường học ở khu vực thành thị và 40% trường học ở khu vực nông thôn xây dựng thực đơn đáp ứng nhu cầu theo khuyến nghị của Bộ Y tế về bảo đảm dinh dưỡng hợp lý theo lứa tuổi và đa dạng thực phẩm.
- 60% trường học có tổ chức bữa ăn học đường sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa trong bữa ăn học đường đạt chuẩn theo quy định.
4. Về tuyên truyền, giáo dục sức khỏe học đường trong trường học:
- 100% học sinh được tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe và nâng cao kiến thức phòng, chống bệnh, tật học đường, bệnh không lây nhiễm và sức khỏe tâm thần; được giáo dục về dinh dưỡng hợp lý, thực phẩm lành mạnh, an toàn.
- 50% học sinh phổ thông được phổ biến, tư vấn về sức khỏe tâm thần, tâm sinh lý lứa tuổi.
- 95% cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên y tế trường học được tập huấn về chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khỏe học sinh trong trường học.
5. Về ứng dụng công nghệ thông tin vào chăm sóc, bảo vệ, quản lý sức khỏe học sinh và thống kê, báo cáo trong trường học:
- 80% trường học ở khu vực thành thị và 60% trường học ở khu vực nông thôn ứng dụng, triển khai hiệu quả phần mềm quản lý, theo dõi và thống kê, đánh giá về sức khỏe học sinh.
- 80% trường học ở khu vực thành thị và 60% trường học ở khu vực nông thôn triển khai các phần mềm đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phần mềm xây dựng thực đơn cho học sinh (đối với trường học có tổ chức bữa ăn học đường).
- 95% cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên y tế trường học được tập huấn để sử dụng hiệu quả các phần mềm quản lý, theo dõi và thống kê, đánh giá về sức khỏe học sinh trong trường học.
Để thực hiện các chỉ tiêu trên, cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp như: Bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị trong trường học; Tăng cường và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Đổi mới công tác giáo dục thể chất, hoạt động thể thao trường học; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, giám sát, thống kê, báo cáo; Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục và vận động xã hội; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, phối hợp liên ngành, tăng cường trách nhiệm triển khai; Đẩy mạnh xã hội hóa và tăng cường hợp tác quốc tế (chi tiết tại Mục IV Quyết định 1660/QĐ-TTg năm 2021).
Cần chú trọng sức khỏe học đường
Chăm sóc sức khỏe ban đầu ngay từ trong trường học vì sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho trẻ em là điều đáng được quan tâm. Sức khỏe học đường (SKHĐ) được xem là nền tảng chung của mọi năng lực khác của học sinh, trong đó có năng lực trí tuệ nên cần sự “đầu tư” đồng bộ.
Báo động...
Được hình thành từ 3 trụ cột chính là dinh dưỡng học đường, thể lực học đường và vệ sinh trường học, SKHĐ giúp phát triển thể chất và tinh thần để học sinh có cơ thể và trí não khỏe mạnh. Tuy nhiên, cùng với xu hướng gia tăng các nguy cơ của bệnh không lây nhiễm ở lứa tuổi học đường, các yếu tố dẫn đến SKHĐ chưa đảm bảo cũng ở mức báo động.
Theo công bố từ Bộ GD-ĐT, cả nước có gần 40% số trường có bếp ăn tập thể, căng tin chưa bảo đảm yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Đội ngũ cán bộ cấp dưỡng trong trường học chưa được đào tạo bài bản, thực đơn bữa ăn chưa bảo đảm khoa học. Công tác tổ chức bữa ăn bán trú còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các trường, điểm trường vùng sâu, vùng xa, miền núi do điều kiện kinh tế còn hạn chế.
“Chúng tôi kiến nghị cần mở rộng tiêu chí trong yêu cầu đào tạo với vị trí nhân viên y tế học đường để bổ sung nguồn tuyển, có thể tuyển dụng điều dưỡng cho công việc này. Ngoài ra, Bộ GD-ĐT cần đưa tiêu chí có nhân viên y tế học đường trở thành yêu cầu bắt buộc đối với tất cả trường học, tránh tình trạng cấp “gói tiêu chí cứng” thì nhiều trường học sẽ cắt vị trí việc làm này để ưu tiên cho công việc khác” - đại diện Sở GD-ĐT nói.
Trong khi đó, tại Quảng Nam, tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ ở mức trung bình, trong đó suy dinh dưỡng thể nhẹ cân chiếm 11,8%, suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm khoảng 23%.
Năm 2023, Quảng Nam cũng là nơi xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm trong trường học. Ngoài ra, tỷ lệ mắc các bệnh về mắt tại Quảng Nam vẫn còn khá cao, trong đó các tật khúc xạ về mắt tại học sinh đang gia tăng. Chưa kể, tình trạng sử dụng thuốc lá điện tử trong trường học trở thành vấn đề nhức nhối ở các trường học phổ thông trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Bộ GD-ĐT, Bộ Y tế đã công bố kết quả khảo sát sức khỏe học sinh toàn cầu tại Việt Nam trong năm học 2019 - 2020.
Theo đó, các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm ở lứa tuổi từ 13 - 17 tuổi có xu hướng tăng. Vấn đề được đặt ra là cần kiểm soát các yếu tố gây nguy cơ của các nhóm bệnh không lây nhiễm.
Cụ thể, tỷ lệ học sinh ăn thức ăn nhanh ít nhất một lần một tuần tăng từ 30,2% lên 54,1%. Tỷ lệ học sinh thừa cân tăng gần gấp đôi, từ 5,8% lên 10,6%, và tỷ lệ trẻ em sử dụng thuốc lá điện tử đang tăng, với 2,6% trên cả nước và 7,9% ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Nên có nhân viên y tế học đường
Tháng 4/2022, Chương trình sức khỏe học đường giai đoạn 2021 - 2025 được UBND tỉnh ban hành với mục tiêu đẩy mạnh công tác chăm sóc, bảo vệ và quản lý sức khỏe học sinh, tăng cường các hoạt động thể chất cũng như tổ chức bữa ăn học đường bảo đảm dinh dưỡng hợp lý...
Các yêu cầu cụ thể được đặt ra, bao gồm phải có 95% trường học bảo đảm các điều kiện thực hiện công tác y tế trường học, chăm sóc sức khỏe học sinh theo quy định; 100% trường học thực hiện kiểm tra sức khỏe học sinh đầu năm học theo quy định; 100% học sinh tham gia bảo hiểm y tế; 50% trường học thực hiện việc đánh giá phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ về bệnh không lây nhiễm, sức khỏe tâm thần cho học sinh; 75% trường học được cung cấp đủ nước sạch bảo đảm chất lượng theo quy định...
Tuy nhiên, nhân lực hoạt động y tế trường học tại Quảng Nam hiện chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm. Đại diện Sở GD-ĐT cho biết, hiện nay có ít trường đủ nhân viên y tế học đường. Lực lượng này chủ yếu đã được tuyển dụng từ trước hoặc đang kiêm nhiệm.
“Hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là các trường học gặp khó khăn do thiếu nguồn tuyển. Mặt khác, theo yêu cầu vị trí việc làm, nhân viên y tế học đường phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, tức là tối thiểu phải là y sĩ đa khoa.
Trên thực tế, số người tốt nghiệp y sĩ đa khoa ít, các cơ sở đào tạo y tế đã ngừng đào tạo mã ngành này. Hầu hết trường học phải hợp đồng với nhân sự đào tạo điều dưỡng cho vị trí nhân viên y tế học đường do không có hồ sơ ứng tuyển đạt yêu cầu trình độ đào tạo. Một nguyên nhân nữa, khi thực hiện lộ trình tinh giảm biên chế, Sở Nội vụ chỉ giao cho mỗi đơn vị từ 4 - 5 chỉ tiêu đối với vị trí nhân viên trường học.
Tùy theo đặc thù từng trường (như trường mầm non, trường có tổ chức bán trú…) thì hiệu trưởng sẽ dành một chỉ tiêu biên chế nhân viên y tế, còn lại các trường gần như ưu tiên cho những vị trí khác như kế toán, nhân viên thiết bị, văn thư…” - đại diện Sở GD-ĐT cho biết.
Đa số trường hiện nay nếu không có nhân viên y tế thì duy trì hình thức hợp đồng với trạm y tế xã, phường. Khi học sinh gặp vấn đề về sức khỏe, tai nạn… khi đang sinh hoạt tại trường thì sẽ được chuyển đến trạm y tế xã để kịp thời sơ cấp cứu.
Trẻ em bị ngộ độc thức ăn, ngộ độc thực phẩm nhẹ thường có biểu hiện: buồn nôn, đau bụng, nôn nhiều lần, tiêu chảy kèm theo sốt, khô môi, khát nước, thở nhanh, mệt lả…